Tìm kiếm
Similar topics
Latest topics
Đăng Nhập
Thực trạng khảo cổ dưới nước Việt Nam
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Thực trạng khảo cổ dưới nước Việt Nam
Thực trạng khảo cổ dưới nước Việt Nam
Hàng trăm nghìn cổ vật được tìm thấy cả dưới lòng sông, đáy biển đã phần nào cho thấy chứng tích của các hoạt động liên quan đến “lịch sử sông nước” Việt Nam; tầm quan trọng, vị trí chiến lược của Việt Nam trong những cuộc giao lưu thương mại quốc tế trên biển, trên sông…
Dù thất thoát không ít bởi nạn săn lùng cổ vật, nhưng ẩn dưới mặt nước sông biển Việt Nam hiện còn nhiều cổ vật vô giá. Nhưng gần 20 năm qua, việc phát hiện và khai thác cổ vật dưới nước hầu hết do ngư dân và chuyên gia nước ngoài hợp tác khai quật.
Cổ vật bị “chảy máu”
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20 ở Việt Nam, khảo cổ học dưới nước – một chuyên ngành mới của khảo cổ học đã được áp dụng để khai thác các di sản văn hóa trong lòng đại dương.
Năm 1990 – 1991, khai quật tàu cổ Hòn Cau tại Vũng Tàu và tàu cổ Hòn Dầm (Kiên Giang); năm 1997 – 2000, khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm ngoài khơi vùng biển Quảng Nam; năm 1998 -1999, khai quật tàu cổ Cà Mau; năm 2001 – 2002, khai quật tàu cổ Bình Thuận.
Sự thành công của các cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước đó đã giúp hiểu rõ hơn “con đường gốm sứ” trên biển và phát hiện thêm nhiều giá trị mới của gốm sứ Việt thế kỷ XVI – XVII.
Trong 5 cuộc khai quật tàu cổ trên, chỉ có duy nhất cuộc khai quật tàu cổ Cà Mau hoàn toàn là do các chuyên gia và kỹ thuật viên Việt Nam thực hiện với kinh phí do Nhà nước cấp khoảng 13 tỷ đồng. Đây là cuộc khai quật duy nhất mà Việt Nam có quyền xử lý và định đoạt số phận của toàn bộ hiện vật.
Các cuộc khai quật còn lại, phía khảo cổ học Việt Nam được phân chia hiện vật rất ít, vì hầu hết kinh phí khai quật đều do đối tác bỏ vốn đầu tư. Điển hình như cuộc khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm (thu được tới 240.000 hiện vật là đồ gốm sứ Chu Đậu thế kỷ XV) ngoài 789 hiện vật độc bản, Việt Nam chỉ được nhận thêm 72.000 hiện vật (30% số hiện vật thu được). 168.000 hiện vật còn lại thuộc sở hữu của đối tác.
Những lớp cọc trên Bạch Đằng Giang được phát lộ đầu tiên từ năm 1953, khi người dân huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) tiến hành đào đất đắp đê. Bãi cọc thứ hai được phát hiện năm 2005 tại cánh đồng Vạn Muối (xã Nam Hòa, Yên Hưng)… tất cả đều là những chứng tích lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc.
Trải qua thời gian, sông Bạch Đằng chuyển dòng, có chỗ đã bị bồi lấp, có chỗ cạn thành ao hồ, đầm ruộng… Trong quá trình làm ruộng, nuôi cá trên cánh đồng, những người dân đã chạm đến cọc và nhổ đi rất nhiều mang về làm nhà, đánh cây rơm… Nếu như không nhanh chóng quy hoạch tổng thể, khoanh vùng để gìn giữ thì những chứng tích lịch sử quan trọng ấy sẽ dần bị mất đi mà không thể lấy lại được.
Không chỉ là việc bị thất thoát những cổ vật có giá trị, sự vắng mặt của chuyên ngành khảo cổ học dưới nước tại nhiều cuộc khai quật đã dẫn đến tình trạng chất lượng khai quật bị ảnh hưởng. Vụ trục vớt tàu cổ ở Khoái Châu (Hưng Yên) vừa qua là một ví dụ.
Là minh chứng cho hoạt động giao thương tấp nập của vùng phố Hiến xưa, nhưng con tàu cổ Hưng Yên được một người chuyên mò sắt bán phế liệu tìm thấy và vớt lên. Do không có kinh nghiệm, trong quá trình trục vớt tàu đã bị gãy làm đôi.
Và trong khi chờ những quyết định của các cơ quan liên quan, con tàu nằm dầm mưa dãi nắng ở bên bờ sông xã Đại Tập (Khoái Châu) gần 2 tháng mà không hề được bảo quản. Đến khi có quyết định chuyển con tàu về bảo tàng Hưng Yên, việc vận chuyển được giao cho Công ty Vận tải Mạnh Kiên thực hiện. Và để thuận tiện, công ty này đã cưa đôi mảnh đuôi tàu để đưa tàu qua cửa đê… cho dễ.
Khảo cổ dưới nước Việt Nam tụt hậu
Trong khi ngay từ đầu thế kỷ, Thái Lan đã cơ bản lập được bản đồ khảo cổ vịnh Thái Lan, thì khảo cổ dưới nước vẫn còn là khái niệm xa lạ với ngành khảo cổ Việt Nam.
Vì ngành khảo cổ học dưới nước của Việt Nam chưa phát triển, nên các cuộc khai quật tàu cổ thường được tiến hành trong tình thế “chữa cháy”.
100% tàu cổ được phát hiện thời gian qua đều là nhờ ngư dân. Các cuộc khai quật cũng chỉ được tiến hành sau khi các ngư dân đã dùng chài lưới cào quét chán chê và hàng ngàn cổ vật bị thất thoát. Không những thế, khi người dân lấy cổ vật, hiện trường bị xáo trộn, gây khó khăn trong việc xác định nghiên cứu cấu trúc, xuất xứ, nguồn gốc cũng như quản lý các tàu cổ đã chìm.
Cũng vì không có phương tiện, kinh phí và đội ngũ các nhà khảo cổ học dưới nước nên Việt Nam chưa hề có một cuộc thăm dò sơ bộ, xác định có bao nhiêu con tàu cổ đắm ngoài khơi, đắm ở tọa độ nào để vẽ bản đồ khảo cổ và có kế hoạch gìn giữ.
Đành rằng, việc lên được một bản đồ khảo cổ dưới nước là điều không dễ dàng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, khó có thể hoạch định được việc gì nên làm trước, việc gì nên làm sau trên một diện tích ẩn chứa di sản nếu thiếu quy hoạch. Việc bảo vệ nghiêm ngặt những điểm có tàu cổ, tránh sự phá hủy của những kẻ chuyên săn mò cổ vật dưới nước cũng chỉ được làm tốt khi xác định được mục tiêu.
Trong khi chưa có kế hoạch dài hơi, ngành khảo cổ trước mắt cần đào tạo đội ngũ các nhà khảo cổ, chuyên gia đủ năng lực và trình độ khảo sát về cổ vật dưới nước, cũng như vẽ được bản đồ các di tích khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam, từ đó chủ động xử lý và phát huy giá trị các kho báu ở biển Việt Nam./.
———————————————————————————————-
Hàng trăm nghìn cổ vật được tìm thấy cả dưới lòng sông, đáy biển đã phần nào cho thấy chứng tích của các hoạt động liên quan đến “lịch sử sông nước” Việt Nam; tầm quan trọng, vị trí chiến lược của Việt Nam trong những cuộc giao lưu thương mại quốc tế trên biển, trên sông…
Dù thất thoát không ít bởi nạn săn lùng cổ vật, nhưng ẩn dưới mặt nước sông biển Việt Nam hiện còn nhiều cổ vật vô giá. Nhưng gần 20 năm qua, việc phát hiện và khai thác cổ vật dưới nước hầu hết do ngư dân và chuyên gia nước ngoài hợp tác khai quật.
Cổ vật bị “chảy máu”
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20 ở Việt Nam, khảo cổ học dưới nước – một chuyên ngành mới của khảo cổ học đã được áp dụng để khai thác các di sản văn hóa trong lòng đại dương.
Năm 1990 – 1991, khai quật tàu cổ Hòn Cau tại Vũng Tàu và tàu cổ Hòn Dầm (Kiên Giang); năm 1997 – 2000, khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm ngoài khơi vùng biển Quảng Nam; năm 1998 -1999, khai quật tàu cổ Cà Mau; năm 2001 – 2002, khai quật tàu cổ Bình Thuận.
Sự thành công của các cuộc khai quật khảo cổ học dưới nước đó đã giúp hiểu rõ hơn “con đường gốm sứ” trên biển và phát hiện thêm nhiều giá trị mới của gốm sứ Việt thế kỷ XVI – XVII.
Trong 5 cuộc khai quật tàu cổ trên, chỉ có duy nhất cuộc khai quật tàu cổ Cà Mau hoàn toàn là do các chuyên gia và kỹ thuật viên Việt Nam thực hiện với kinh phí do Nhà nước cấp khoảng 13 tỷ đồng. Đây là cuộc khai quật duy nhất mà Việt Nam có quyền xử lý và định đoạt số phận của toàn bộ hiện vật.
Các cuộc khai quật còn lại, phía khảo cổ học Việt Nam được phân chia hiện vật rất ít, vì hầu hết kinh phí khai quật đều do đối tác bỏ vốn đầu tư. Điển hình như cuộc khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm (thu được tới 240.000 hiện vật là đồ gốm sứ Chu Đậu thế kỷ XV) ngoài 789 hiện vật độc bản, Việt Nam chỉ được nhận thêm 72.000 hiện vật (30% số hiện vật thu được). 168.000 hiện vật còn lại thuộc sở hữu của đối tác.
Những lớp cọc trên Bạch Đằng Giang được phát lộ đầu tiên từ năm 1953, khi người dân huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) tiến hành đào đất đắp đê. Bãi cọc thứ hai được phát hiện năm 2005 tại cánh đồng Vạn Muối (xã Nam Hòa, Yên Hưng)… tất cả đều là những chứng tích lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc.
Trải qua thời gian, sông Bạch Đằng chuyển dòng, có chỗ đã bị bồi lấp, có chỗ cạn thành ao hồ, đầm ruộng… Trong quá trình làm ruộng, nuôi cá trên cánh đồng, những người dân đã chạm đến cọc và nhổ đi rất nhiều mang về làm nhà, đánh cây rơm… Nếu như không nhanh chóng quy hoạch tổng thể, khoanh vùng để gìn giữ thì những chứng tích lịch sử quan trọng ấy sẽ dần bị mất đi mà không thể lấy lại được.
Không chỉ là việc bị thất thoát những cổ vật có giá trị, sự vắng mặt của chuyên ngành khảo cổ học dưới nước tại nhiều cuộc khai quật đã dẫn đến tình trạng chất lượng khai quật bị ảnh hưởng. Vụ trục vớt tàu cổ ở Khoái Châu (Hưng Yên) vừa qua là một ví dụ.
Là minh chứng cho hoạt động giao thương tấp nập của vùng phố Hiến xưa, nhưng con tàu cổ Hưng Yên được một người chuyên mò sắt bán phế liệu tìm thấy và vớt lên. Do không có kinh nghiệm, trong quá trình trục vớt tàu đã bị gãy làm đôi.
Và trong khi chờ những quyết định của các cơ quan liên quan, con tàu nằm dầm mưa dãi nắng ở bên bờ sông xã Đại Tập (Khoái Châu) gần 2 tháng mà không hề được bảo quản. Đến khi có quyết định chuyển con tàu về bảo tàng Hưng Yên, việc vận chuyển được giao cho Công ty Vận tải Mạnh Kiên thực hiện. Và để thuận tiện, công ty này đã cưa đôi mảnh đuôi tàu để đưa tàu qua cửa đê… cho dễ.
Khảo cổ dưới nước Việt Nam tụt hậu
Trong khi ngay từ đầu thế kỷ, Thái Lan đã cơ bản lập được bản đồ khảo cổ vịnh Thái Lan, thì khảo cổ dưới nước vẫn còn là khái niệm xa lạ với ngành khảo cổ Việt Nam.
Vì ngành khảo cổ học dưới nước của Việt Nam chưa phát triển, nên các cuộc khai quật tàu cổ thường được tiến hành trong tình thế “chữa cháy”.
100% tàu cổ được phát hiện thời gian qua đều là nhờ ngư dân. Các cuộc khai quật cũng chỉ được tiến hành sau khi các ngư dân đã dùng chài lưới cào quét chán chê và hàng ngàn cổ vật bị thất thoát. Không những thế, khi người dân lấy cổ vật, hiện trường bị xáo trộn, gây khó khăn trong việc xác định nghiên cứu cấu trúc, xuất xứ, nguồn gốc cũng như quản lý các tàu cổ đã chìm.
Cũng vì không có phương tiện, kinh phí và đội ngũ các nhà khảo cổ học dưới nước nên Việt Nam chưa hề có một cuộc thăm dò sơ bộ, xác định có bao nhiêu con tàu cổ đắm ngoài khơi, đắm ở tọa độ nào để vẽ bản đồ khảo cổ và có kế hoạch gìn giữ.
Đành rằng, việc lên được một bản đồ khảo cổ dưới nước là điều không dễ dàng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, khó có thể hoạch định được việc gì nên làm trước, việc gì nên làm sau trên một diện tích ẩn chứa di sản nếu thiếu quy hoạch. Việc bảo vệ nghiêm ngặt những điểm có tàu cổ, tránh sự phá hủy của những kẻ chuyên săn mò cổ vật dưới nước cũng chỉ được làm tốt khi xác định được mục tiêu.
Trong khi chưa có kế hoạch dài hơi, ngành khảo cổ trước mắt cần đào tạo đội ngũ các nhà khảo cổ, chuyên gia đủ năng lực và trình độ khảo sát về cổ vật dưới nước, cũng như vẽ được bản đồ các di tích khảo cổ học dưới nước ở Việt Nam, từ đó chủ động xử lý và phát huy giá trị các kho báu ở biển Việt Nam./.
(Tin tức/Vietnam+)
———————————————————————————————-
Re: Thực trạng khảo cổ dưới nước Việt Nam
Bảng dịch tiếng Anh của bản tin:
Hundreds of thousands of antiques have been taken from river and sea beds. However, most of the excavations have been conducted by fishermen and foreign experts.
The exhibition of antiques from an ancient shipwreck in Cu Lao Cham.
Antique losses
In the late years of the 20th century, underwater archaeology was introduced in Vietnam to discover cultural heritages on the seabed
In 1990-1991, Vietnam excavated a Hon Cau ancient boat in the sea of Vung Tau and a Hon Dam vessel in the southern province of Kien Giang. An old boat was discovered in the sea of the southern province of Ca Mau in 1998-1999. Another ancient boat was excavated off the coast of the central province of Quang Nam in 1997-2000 and a shipwreck was excavated in Binh Thuan province in 2001-2002.
These excavations revealed much interesting evidence about the “pottery road” on the sea and introduced new values of Vietnamese ceramics in the 16th and 17th centuries.
However, of the five above excavations, only the one in Ca Mau was implemented by Vietnamese technicians and experts, at a funding of 13 billion dong (around $930,000) from the state budget. This is the only excavation of ancient shipwrecks from which Vietnam has the right to determine the fate of all antiques.
In the remaining underwater excavations, Vietnam was given a small share of antiques because most of the funding for the excavations was paid by foreign partners.
For example, of 240,000 antiques of the 15th century collected from the excavation of an ancient shipwreck in Cu Lao Cham, Vietnam received 789 antiques, which are of a single kind, and 72,000 other objects. The remaining 168,000 items belonged to the foreign partner.
The absence of underwater archaeologists at excavations is another reason for the loss of antiques. A recent excavation of a shipwreck in the northern province of Hung Yen is a typical example.
This ancient shipwreck, evidence of the busy Pho Hien in the past, was discovered by a iron scrap finder. Without underwater archaeologists, the boat was broken into two in the excavation process.
While awaiting competent agencies’ decision, the boat was exposed to the sun and rain on the bank of the river for nearly two months without being preserved. When competent agencies decided to move the ancient boat to the Hung Yen Museum, a transportation company was hired to transport the ship to the museum. To facilitate its job, this company chopped the stern into two pieces for “easy transportation”.
Behind the times
Vietnam’s neighbor Thailand had an archaeological map for Thailand Bay in the early 21st century. At that time, underwater archaeology was a new concept in Vietnam.
Since underwater archaeology is underdeveloped, all ancient shipwrecks are found by chance.
All ancient boats have been discovered by fishermen. All excavations were conducted after these boats were visited by fishermen, resulting in the loss of thousands of antiques. The fishermen caused changes in the surrounding environment, raising difficulties for experts later.
Owing to a fund shortage and the lack of professional underwater archaeologists, Vietnam has not made any survey of ancient shipwrecks in the country to draw up a map and a plan to preserve them.
VietNamNet/TTXVN
Similar topics
» Khảo cổ học dưới nước...
» Tìm kiếm báu vật dưới đáy biển Việt Nam
» Lý thuyết về khảo cổ học môi trường và khảo cổ học côn đảo dưới góc nhìn địa sinh thái nhân văn
» Tìm kiếm báu vật dưới đáy biển Việt Nam
» Lý thuyết về khảo cổ học môi trường và khảo cổ học côn đảo dưới góc nhìn địa sinh thái nhân văn
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Thu Jun 27, 2013 8:11 am by diepkhaoco52
» Những người chế tác thần linh
Thu Jun 27, 2013 7:53 am by diepkhaoco52
» Nỗi niềm di chỉ khảo cổ học
Thu Jun 27, 2013 7:52 am by diepkhaoco52
» Tượng Ấn Độ Giáo (Phần 2)
Wed Jun 26, 2013 9:45 pm by diepkhaoco52
» Tượng Ấn Độ Giáo (Phần 1)
Wed Jun 26, 2013 9:43 pm by diepkhaoco52
» Văn hóa Ngưỡng Thiều (Phần 2)
Wed Jun 26, 2013 9:36 pm by diepkhaoco52
» Văn hóa Ngưỡng Thiều (văn hóa đá mới Trung Quốc)
Wed Jun 26, 2013 9:30 pm by diepkhaoco52
» Sách từ điển khảo cổ học
Wed Jun 26, 2013 9:20 pm by diepkhaoco52
» Lý lịch MrDiep_archaeology
Wed Jun 26, 2013 9:12 pm by diepkhaoco52