Tìm kiếm
Similar topics
Latest topics
Đăng Nhập
THÀNH CỔ BIÊN HÒA VÀ DẤU TÍCH CÒN LẠI
2 posters
Trang 1 trong tổng số 1 trang
THÀNH CỔ BIÊN HÒA VÀ DẤU TÍCH CÒN LẠI
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong diễn trình lịch sử của Biên Hòa - Đồng Nai, thành cổ Biên Hòa gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử: nhà Nguyễn dẹp cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi, cuộc chiến đấu chống quân Pháp lần thứ nhất vào nửa cuối thế kỷ 19.
Ngoài chức năng của một trung tâm hoạt động nhiều mặt xã hội đương thời, thành Biên Hoà có những đóng góp quan trọng trong việc bố phòng an ninh của nhà Nguyễn ở miền Đông Nam bộ nói chung và Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng. Thành cổ Biên Hòa được xây dựng là một thành quả có sự đóng góp sức người rất lớn của các thế hệ tiền nhân Biên Hòa.
Trên địa bàn nội ô thành phố Biên Hòa, trong khu vực phường Quang Vinh, hiện còn những dấu tích của một thành cổ với bờ thành bằng đá ong, toà kiến trúc hằn lên những vết tích của thời gian. Những gì còn sót lại chỉ là một phần nhỏ của một thành Biên Hòa được xây dựng từ thời nhà Nguyễn, trải qua bao biến thiên lịch sử với nhiều tên gọi: thành Cựu, thành Kèn, thành Săn - đá...
Theo báo Đồng Nai, so với những di tích thành cổ ở Nam phần, thành cổ Biên Hòa với những dấu tích còn lại là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua hơn 170 năm được tạo dựng, trải qua bao biến cố thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình kiến trúc cổ Biên Hòa này vẫn còn những dấu tích rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại.
Đề tài mong góp phần tìm hiểu về di tích thành Biên Hòa, lịch sử hình thành và phát triển, cũng như những dấu tích còn lại đến ngày nay. Để từ đó, có thể thấy được hiện trạng, công tác bảo tồn di tích hiện nay. Đồng thời, đề tài mong được góp phần cảnh báo sự xuống cấp của di tích cũng như sự thờ ơ của người dân và chính quyền địa phương, đưa ra một vài kiến nghị về công tác bảo tồn di tích, định hướng phát triển di tích trong tương lai.
II/ NỘI DUNG:
1. GIỚI THIỆU VỀ THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
1.1. Khái niệm “thành”:
“Trong mọi tài liệu chữ Hán, chữ “thành” đều mang hai hàm ý: hoặc giả được dùng để chỉ chung cả lỵ sở có thành phòng vệ, nếu là quốc gia thì có ý chỉ kinh đô, ví như “Thăng Long thành”, “kinh thành”, “thành thị”,...; hoặc giả chỉ dùng để chỉ công trình quân sự được xây đắp theo dáng một tường vây bao kín một trung tâm”[1].
“Thành là công trình xây dựng to lớn, mang địa vị một trung tâm quân sự, hành chính, kinh tế và văn hóa; thông thường ngoài quân sự cón có thêm một địa vị khác”[2].
“Vôbăng (Vauban) là một kỹ sư quân sự và từng được mang cấp bậc nguyên soái nước Pháp. Ông sinh tại Xanh Lêgiê (Saint-Léger (Yonne)) năm 1663, mất năm 1707.Ông đã xây dựng nhiều công trình phòng vệ biên thùy, xây dựng 33 tòa thành và sửa sang 300 đồn lũy thành trì.
Tất cả các thành lũy nước Pháp đều được xây dựng theo một trong ba hệ thống. Hệ thống Vôbăng là hệ thống thứ ba. Kiểu kiến trúc Vôbăng đã được áp dụng trong việc xây dựng nhiều thành trì của nước Pháp từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Kiểu thành Vôbăng với đặc điểm nổi bật trong việc bố trí những pháo đài (bastion), pháo đài góc (lunette d’angle), những pháo nhãn (embrassure), đường chân thành ngoài (berme), đường ngoài hào (glacis)... xuất hiện trong điều kiện mà quân đội đã được trang bị bằng những vũ khí bắn đạn được đẩy đi bằng thuốc súng”[3].
1.2. Vị trí địa lý:
Thành Biên Hòa tọa lạc tại vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp và khu danh thắng Bửu Long.[4]
Hiện vẫn còn một phần của thành Biên Hòa xưa, nằm ở khu phố 1, đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.[5]
“Tỉnh Đồng Nai có diện tích 5.862,37km2 thuộc miền Đông Nam Bộ. Chiếm 1,76% diện tích tự nhiên toàn quốc và 25,5% diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ. Giới hạn trong tọa độ địa lý: Từ 100o 22’ đến 110 o 35’ vĩ độ bắc, từ 1060 o 44’ 15” đến 1070 o 34’ 10” kinh độ đông.
Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía bắc và đông giáp tỉnh Lâm Đồng, phía bắc và tây bắc giáp tỉnh Bình Dương, phía đông và đông nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phía tây và tây nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện. Thành phố Biên Hoà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh; 1 thị xã là Long Khánh; 9 huyện gồm: Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ và Trảng Bom”[6].
“Thành phố Biên Hòa là thủ phủ của tỉnh Đồng Nai, vị trí thành phố Biên Hòa Biên Hòa nằm ở phía tây Nam tỉnh Đồng Nai, bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, nam giáp huyện Long Thành, đông giáp huyện Trảng Bom, tây giáp huyện Dĩ An, Tân Uyên tỉnh Bình Dương và Quận 9 - thành phố Hồ Chí Minh.
Biên Hòa ở hai phía của sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km (theo Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 1A), cách thành phố Vũng Tàu 90 Km (theo Quốc lộ 51).
Biên Hòa có 30 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 23 phường và 7 xã). Cụ thể, các phường gồm: An Bình, Bửu Hòa, Bình Đa, Bửu Long, Hòa Bình, Hố Nai, Long Bình, Long Bình Tân, Quyết Thắng, Quang Vinh, Thanh Bình, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tân Biên, Thống Nhất, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Trảng Dài, Trung Dũng và 7 xã: Hóa An, Hiệp Hòa, Tân Hạnh, An Hòa, Long Hưng, Phước Tân và Tam Phước”[7].
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển:
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ, ký lục để quản trị; Nha thuộc có 2 ty Xá Lại để làm việc; quân binh thì có cơ đội thuyền thủy tinh binh và thuộc binh để hộ vệ[8].
Theo thư tịch cổ, từ thế kỷ 14-15, thành do dân Lạp Man xây đắp bằng đất với tên gọi "Thành Cựu". Thời nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền Thành Cựu, có mở rộng hơn, với tên gọi thành Biên Hòa[9].
Theo Gia Định Thành Thông Chí, “Lỵ sở trấn Biên Hòa khi xưa đặt ở địa phận thôn Phước Lư, huyện Phước Chính, đất ẩm thấp hằng năm có nạn lụt. Năm Gia Long thứ 15 (1816) dời qua gò cao thôn Tân Lân, hoạch định ra thành sở, ngang dọc đều 200 tầm, trong chia làm đường chữ tỉnh giữa dựng Vọng cung, 2 bên tả hữu có lầu chuông trống, chỗ chính giữa sau Vọng cung, làm 3 công dinh, rộng 80 tầm, mà chia ra làm 3 phần, duy có dinh giữa rộng thêm 5 tầm, dài 60 tầm, 2 con đường tả hữu đều 7 tầm, chu vi tường gạch, phía sau làm dãy kho chứa 31 gian, lợp ngói xây gạch dày chắc, 2 bên tả hữu làm thừa ty và quân trại, có chia khu vực chỉnh tề”[10].
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh thành Biên Hòa có “chu vi dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng; hào rộng 4 trượng, sâu 6 thước; có 4 cửa và một kỳ đài; ngoài mỗi cửa đều xây cầu đá ngang qua hào để đi qua lại. Tỉnh thành này ở địa phận thôn Tân Lân huyện Phước Chính. Khi đầu bản triều dựng đặt ở thôn Phước Lư, năm Gia Long 15 (1816) rời qua chỗ đây. Năm Minh Mạng 15 (1834), đắp bằng đất, năm 18 (tức 1837) xây lại bằng đá ong”[11].
“Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, thu gọn chu vị thành còn 1/8 so với trước và gọi là thành "Săn – đá", phiên âm từ tiếng Pháp Soldat - nghĩa là "Thành Lính". Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở. Buổi sáng lính thường sử dụng kèn báo thức, âm thanh vang cả một vùng nên dân địa phương còn gọi là Thành Kèn”[12].
“Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đề cập tới quy mô tỉnh thành Biên Hòa xưa rộng 18 héc-ta bao gồm tường rào và cả hào nước xung quanh thành. Thành được xây theo kiểu bố phòng Vôbăng, tức tường cao và dày, lại có các cạnh gấp khúc để súng đạn từ trong thành bắn ra được bao phủ đều khắp quanh thành. Trong thành, ngoài một kỳ đài, còn có mười ngôi công đường chính. Trong vùng Nam Bộ, thành Biên Hòa có vị trí lớn chỉ sau thành Gia Định. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã đưa ra hai bản đồ rất xưa đo đạc chính xác vị trí thành Biên Hòa. Bản đồ đầu tiên là Plan des rapides de Biên Hòa (bình đồ thác nước sông Biên Hòa) do 3 kỹ sư thủy quân Manen, Vidalin và Héraud đo vẽ vào năm 1862 – 1863. Bản đồ thứ hai là Carte de Cochinchine – một bản đồ nguyên gốc xuất bản vào tháng 5 năm 1926. Đây là tư liệu quý để các nhà khảo cổ, những người làm công tác quy hoạch tham khảo, xác định chính xác vị trí thành cổ và có quy hoạch phù hợp”[13].
“Thời kỳ Mỹ - ngụy, thành Biên Hòa được các thế lực xâm lược sử dụng vào mục đích quân sự. Sau năm 1975, phòng Hậu cần Công an Đồng Nai quản lý, sử dụng di tích và xây dựng thêm một số hạng mục làm công sở, nhà kho. Năm 2001, do nhu cầu mở đường nội ô ở thành phố, một số hạng mục như: lô cốt, vòng thành bị đập bỏ. Mặc dù diện tích của thành Biên Hòa bị thu hẹp, một số hạng mục bị phá vỡ so với hình thể ban đầu, nhưng vẫn bảo lưu được yếu tố gốc cần thiết. Do quá trình phát triển đô thị của tỉnh, vị trí di tích thành cổ Biên Hòa tọa lạc hiện nay bị chia làm bốn phần (thực tế chỉ giữ lại ¼, ¾ còn lại được dành cho các công trình khác)”[14].
2. THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
2.1. Dấu tích còn lại:
Nằm ở đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa hiện vẫn còn một phần của thành Biên Hòa xưa. Vết tích còn lại là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong, bên trong có ngôi biệt thự kiến trúc lầu của Pháp[15].
Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này[16].
“Thành Biên Hòa” giờ chỉ còn lại những đoạn tường thành bằng đá ong liên kết với nhau bao quanh diện tích 10.816,5 m2, cùng một số hạng mục, công trình bên trong Thành: 2 tòa biệt thự hướng Tây - Bắc và hướng Tây – Nam (1 căn 3 tầng, 1 căn 2 tầng), 2 lô cốt phía Đông và phía Bắc thành, các đoạn tường thành và móng thành[17].
Tuy nhiên, các công trình này đều bị rễ cây cổ thụ ăn vào làm xuyên tường, làm nứt mạch xây và vữa trát, nhiều đoạn bị bong tróc nghiêm trọng, nhiều chỗ bị ẩm mốc. Sàn gạch của tòa nhà trong thành đã bị han rỉ làm bong các lớp vữa trát, khiến khối gạch nằm giữa tụt khỏi khuôn, làm thủng sàn.
Ngoài ra giàn mái cũng như các cửa trên mái lấy gió, ống khói hầu như đã hư hỏng nặng. Riêng hệ thống phòng thủ nhiều đoạn tường thành cũ đã bị sập đổ. Khuôn viên của khu di tích Thành Kèn đang bị người dân chiếm dụng để trông giữ xe, tập kết vật liệu xây dựng. Hệ thống phòng thủ trong thành hiện cũng đã bị sập đổ[18].
2.2. Cấu trúc:
Theo tác giả Lương Văn Lựu viết trong Biên Hòa sử lược, thì “chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và một kỳ đài (phía chánh điện). Mỗi cửa ngõ có bắc một cầu đá ngang qua hào để làm lối lưu thông ra vào". Thành được xây theo hình cánh cung, đến năm Minh Mạng thứ 18 (tức 1837), Thành Cựu được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Thành Biên Hòa.
Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, trên cơ sở nền cũ bằng gạch thẻ và đá ong nhưng thu gọn chu vi còn 1/8 so với trước. Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở[19].
Các khu nhà biệt thự với một tòa phía tây bắc và một tòa phía đông nam. Những ngôi nhà này được xây dựng với 3 tầng có sàn gạch, mái ngói, vòm cuốn, hệ thống cửa thông gió cho cả tòa nhà, trong đó đáng chú ý là sàn gạch được chia nhỏ bằng các thanh thép hình to dày, sau đó ghép gạch lại với nhau bằng chất kết dính là vữa và vôi.
Những nghiên cứu về Thành Kèn cho thấy, nhiều kỹ thuật xây cổ vẫn còn giá trị cho các nhà nghiên cứu về công nghệ xây dựng ngày nay như: Các sàn gạch bằng vữa vôi, kết cấu giàn mái bằng thép - gỗ, cấu tạo thông gió trong ngôi nhà, cách thức lợp mái hiện đại nhưng lại xuất hiện hơn một thế kỷ trước và kỹ thuật chống sét cũng như hệ thống kỹ thuật cuốn vòm bằng gạch… [20]
2.3. Chức năng cơ bản:
Chức năng chính của thành Biên Hòa là trung tâm hành chính – chính trị (thủ phủ của một địa phương) và là trung tâm kinh tế - văn hóa – xã hội.
Ngoài chức năng của một trung tâm hoạt động nhiều mặt xã hội đương thời, thành Biên Hoà có những đóng góp quan trọng trong việc bố phòng an ninh của nhà Nguyễn ở miền Đông Nam bộ nói chung và Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng. [21]
Trong diễn trình lịch sử của Biên Hòa - Đồng Nai, thành cổ Biên Hòa gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử: nhà Nguyễn dẹp cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi, cuộc chiến đấu chống quân Pháp lần thứ nhất vào nửa cuối thế kỷ 19. Trải qua nhiều biến cố, thành Biên Hòa có nhiều thay đổi. [22]
Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. [23]
Ngày nay “Thành Biên Hòa” không còn nguyên vẹn như xưa song những gì còn sót lại đã phản ánh được trình độ kỹ thuật, kiến trức quân sự của cha ông ta ngày xưa.[24]
Các công trình kiến trúc và những dấu tích còn lại là những tư liệu quý giá về kỹ thuật xây dựng vào thời kỳ đầu chế độ đô hộ thực dân. Trong đó, khá rõ nét là công trình phòng thủ quân sự và công trình nhà làm việc, nhà ở kiểu Pháp; các đoạn tường thành, móng thành và các vị trí chiến đấu. Tại đây cũng thấy ảnh hưởng của “tính bản địa” qua việc sử dụng các vật liệu tại chỗ như gỗ, đá tổ ong, bên cạnh các vật liệu thuần châu Âu như gạch chỉ, thép[25].
2.4. Vị trí ý nghĩa thành Biên Hòa trong vùng Đông Nam bộ :
Theo báo Đồng Nai, so với những di tích thành cổ ở Nam phần, thành cổ Biên Hòa với những dấu tích còn lại là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua hơn 170 năm được tạo dựng, trải qua bao biến cố thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình kiến trúc cổ Biên Hòa này vẫn còn những dấu tích rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại[26].
Di tích lịch sử thành Biên Hòa được xây dựng từ thời chúa Nguyễn (thế kỷ XIX). Đây là công trình kiến trúc quân sự đặc sắc có niên đại sớm ở Đồng Nai và vùng phụ cận[27].
Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu, cùng với thời gian tồn tại hàng trăm năm, Thành Kèn là chứng nhân lịch sử của triều Nguyễn, cũng là pho sử ghi lại một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Biên Hòa và miền Đông Nam bộ trong đấu tranh chống thù trong giặc ngoài và bảo vệ Tổ quốc. [28]
Những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho biết, Thành Biên Hòa có một vị trí rất quan trọng trên nhiều mặt. Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này[29].
Sự tồn tại của những dấu tích kiến trúc này là một điều may mắn cho địa phương, các nhà quản lý, chuyên ngành trong công tác bảo vệ. Diễn trình của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai chỉ hơn 300 năm có lẻ thì thành Biên Hòa tồn tại 170 năm. Các di vật thể loại hình thành trì thời Nguyễn ở Nam Bộ hầu như không để lại dấu tích kiến trúc như thành Biên Hòa. Vì vậy, khi bảo vệ di tích này, đây sẽ là một loại hình di tích độc đáo của cả Nam Bộ và có thể phát huy giá trị của chúng trong các hoạt động liên quan[30].
3. CÔNG TÁC BẢO TỒN DI TÍCH THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
3.1. Hiện trạng:
Công trình di tích có ý nghĩa cả về mặt lịch sử và khoa học này là hiện đang bị xâm chiếm và xuống cấp nghiêm trọng.
Tuy nhiên, các công trình này đều bị rễ cây ăn vào làm xuyên tường, nhiều đoạn bị bong tróc nghiêm trọng. Sàn gạch của tòa nhà trong thành đã bị han rỉ làm bong các lớp vữa trát, khiến khối gạch nằm giữa tụt khỏi khuôn, làm thủng sàn.
Ngoài ra giàn mái cũng như các cửa trên mái lấy gió, ống khói hầu như đã hư hỏng nặng. Riêng hệ thống phòng thủ nhiều đoạn tường thành cũ đã bị sập đổ. Khuôn viên của khu di tích Thành Kèn đang bị người dân chiếm dụng để trông giữ xe, tập kết vật liệu xây dựng. Hệ thống phòng thủ trong thành hiện cũng đã bị sập đổ.
Theo khảo sát của Ban quản lý di tích danh thắng tỉnh Đồng Nai, trước đây, Thành Kèn còn có hệ thống cống ngầm phía dưới, nhưng hiện công trình này có thể đã bị vùi lấp. Có người còn cho rằng thành còn có cả hệ thống hầm ngầm và địa đạo nối liền với các khối nhà cổ...
Để cứu lấy di tích lịch sử Thành Kèn, pho sử quý giá này, theo các chuyên gia, chính quyền địa phương cần nhanh chóng lập dự án phục hồi các hạng mục trên, thực hiện ngay các công đoạn trùng tu, tôn tạo di tích trước khi công trình này chỉ còn là đống đổ nát.[31]
3.2. Công tác bảo tồn:
Sáng 23/11/2009, Ban quản lý Di tích – Danh thắng tỉnh Đồng Nai đã tổ chức lễ kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11); công bố quyết định công nhận di tích lịch sử Thành Biên Hòa và khai mạc triển lãm “Thành Biên Hòa – Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa”.
Ngày nay “Thành Biên Hòa” không còn nguyên vẹn như xưa song những gì còn sót lại đã phản ánh được trình độ kỹ thuật, kiến trức quân sự của cha ông ta ngày xưa. Việc công nhận Di tích lịch sử thành Biên Hòa vào dịp kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần khơi dậy niềm tự hào và nâng cao ý thức tự tôn dân tộc đối với thế hệ trẻ.
Nhân dịp này, Ban quản lý Di tích đã tổ chức triển lãm với tên gọi “Thành Biên Hòa – Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa” gồm 18 bức ảnh về Thành cổ Biên Hòa, 35 ảnh về Thành cổ Việt Nam, đặc biệt trong đó có 15 ảnh và 74 hiện vật về Biên Hòa xưa đã tái hiện cảnh đường phố và nét sinh hoạt văn hóa của người Biên Hòa những năm đầu thế kỷ 20. Triển lãm này đã giới thiệu một số hình ảnh tiêu biểu về Di tích lịch sử Thành Biên Hòa, Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa đến với nhân dân địa phương và du khách góp phần nâng cao nhận thức trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo quản khai thác giá trị Di sản văn hóa Việt Nam; đồng thời tổ chức Hội thảo về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của Thành Biên Hòa cũng như các giải pháp bảo quản, trùng tu và tôn tạo di tích ngày một khang trang hơn.[32]
Cùng với những thăng trầm của lịch sử, Thành Biên Hòa tuy không còn nguyên vẹn như lúc ban đầu, song những gì còn sót lại của một thành trì (vị trí tọa lạc, hình dáng, chất liệu xây dựng, lô cốt, biệt thự...) phần nào phản ảnh được trình độ kỹ thuật, kiến trúc quân sự, tư tưởng chiến thuật của cha ông ngày xưa. Đặc biệt, Thành Biên Hòa tọa lạc vào vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp và khu danh thắng Bửu Long. Vì thế, Thành Biên Hòa trong tương lai trở thành một trong những điểm tham quan du khảo về nguồn của học sinh, sinh viên và du khách...[33]
3.2. Kiến nghị:
Vì tầm quan trọng của di tích đối với thành phố Biên Hòa nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói chung, cần có những biện pháp tích cực, cấp bách để bảo tồn di tích khỏi sự xuống cấp trầm trọng đang diễn ra hằng năm, thậm chí là hàng tháng, hằng ngày.
Trước hết cần “phải bảo tồn nguyên vẹn di tích hiện hữu để các thế hệ hôm nay và mai sau nghiên cứu một cách toàn diện về thành cổ Biên Hòa trong điều kiện, phương diện trình độ khoa học mới”[34].
Cần có những biện pháp tích cực hơn để bảo tồn di tích. Những buổi triển lãm cần được tổ chức thường xuyên hơn, phổ biến rộng rãi hơn để tuyên truyền, giáo dục ý thức cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. Nên có đội ngũ triển lãm lưu động để có thể tổ chức triển lãm trong và ngoài tỉnh, góp phần vừa tuyên truyền, giáo dục vừa giới thiệu về di tích cho người dân khắp nơi.
Các hội thảo khoa học cũng phải tổ chức thường xuyên hơn, góp phần đưa ra các giải pháp trùng tu, tôn tạo di tích sao cho có thể vừa giữ gìn nguyên vẹn tính chất, lịch sử của di tích, vừa cứu di tích khỏi nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Đưa di tích đến với đông đảo công chúng bằng cách kết hợp bảo vệ di tích với phát triển du lịch, các hoạt động văn hóa – văn nghệ, các trò chơi dân gian,…góp phần tái hiện lại lịch sử thành Biên Hòa xưa.
Cần lập ra ban quản lý di tích để quản lý di tích, góp phần bảo vệ, tôn tạo di tích, giới thiệu di tích với khách du lịch. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có chuyên môn cao, thực hiện các chính sách thu hút nhân tài, nhất là cán bộ chuyên ngành khảo cổ học, bảo tàng học, văn hóa học, dân tộc học,…để có thể bảo tồn di tích tốt hơn.
Cần kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và người dân ở xung quanh di tích cùng bảo vệ di tích. Phải giáo dục, tuyên truyền để người dân địa phương, không lấn chiếm, phá hoại di tích mà sẽ cùng chung tay bảo vệ di tích khỏi bàn tay phá hoại của kẻ xấu cũng như mối mọt, động vật, thực vật xâm hại,...
“Khảo cổ học Đồng Nai đã phát hiện nhiều loại hình di tích, di vật quanh thành cổ như: tượng, bệ thờ, Yoni, phù điêu, tấm đan, tượng thần, tượng Phật,…Việc khảo sát tìm hiểu các địa tầng văn hóa trong khu vực thành cổ để nghiên cứu sâu rộng di sản văn hóa cha ông để lại là việc làm cần thiết”[35].
III/ KẾT LUẬN:
“Thành Biên Hòa là một trong số những kiến trúc thành trì độc đáo còn sót lại ở Nam Bộ. Cùng với diễn trình lịch sử, thành Biên Hòa đã trở thành nơi minh chứng lịch sử hào hùng của con người vùng đất Biên Hòa, Đồng Nai trong suốt chặng đường hành trình và phát triển”[36].
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, trải qua 170 năm hình thành, phát triể và tồn tại, Thành Biên Hòa tuy không còn nguyên vẹn như lúc ban đầu, song những gì còn sót lại của một thành trì (vị trí tọa lạc, hình dáng, chất liệu xây dựng, lô cốt, biệt thự...) phần nào phản ảnh được trình độ kỹ thuật, kiến trúc quân sự, tư tưởng chiến thuật của cha ông ta.
Mặc dù đã bị thu hẹp, lấn chiếm, xuống cấp, nhưng thành Biên Hòa vẫn còn hiên ngang tồn tại giữa lòng thành phố trong khi các thành trì thời nhà Nguyễn khác ở Nam Bộ đã không còn dấu tích.
Cũng là một may mắn cho thành Biên Hòa, khi những gì còn lại của tòa thành xưa ngày nay tọa lạc vào vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp, khu danh thắng Bửu Long… Vì thế, Thành Biên Hòa trong tương lai rất có thể sẽ trở thành một trong những điểm tham quan du khảo về nguồn của học sinh, sinh viên và du khách trong và ngoài nước.
Nhưng do không được bảo quản tốt, thành Biên Hòa hiện nay đang xuống cấp trầm trọng và bị người dân lấn chiếm sử dụng cho mục đích riêng. Nếu không có những biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời, cũng như các biện pháp tôn tạo, bảo vệ di tích, thì thành Biên Hòa không bao lâu nữa sẽ hoàn toàn sụp đổ.
Vì tầm quan trọng của di tích, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Nai nói chung, thành phố Biên Hòa nói riêng cần chung tay bảo tồn di tích, để di tích có thể tồn tại cùng thời gian, để cho các thế hệ mai sau được chiêm ngưỡng, tự hào.
IV/ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Sách:
1. “Đại Nam Nhất Thống Chí”
2. Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, “Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển”, NXB Đồng Nai, Đồng Nai – 1998.
3. Bảo tàng Đồng Nai (1995), “Người Đồng Nai”, NXB Đồng Nai.
4. Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam: cấu trúc, tác dụng trong chiến tranh giữ nước”, Luận án phó tiến sĩ khoa học, Viện Khảo cổ học – 1981.
5. Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983.
6. Hà Văn Tấn (chủ biên), “Khảo cổ học Việt Nam – tập III – Khảo cổ học lịch sử Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 2002.
7. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách Khoa Việt Nam (2003), “Từ điển Bách Khoa Việt Nam” – quyển 1,2,3, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
8. Nguyễn Thừa Hỷ – Đỗ Bang – Nguyễn Văn Đăng, “Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn”, NXB Thuận Hóa, Huế – 1999.
9. Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển III – tập trung), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa.
10. Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.
11. Võ Sĩ Khải (2002), “Văn hóa Đồng Bằng Nam Bộ (di tích kiến trúc cổ)”, NXB KHXH, TP.HCM.
Internet:
1. http://vi.wikipedia.org.
2. http://vietbao.vn
3. http://www.baria-vungtau.gov.vn
4. http://www.dongnaionline.com
5. http://www.panoramio.com
6. www.baodongnai.com.vn
7. www.dongnai.gov.vn
8. www.dongnaionline.com
9. www.dothi.net
10. www.thethaovanhoa.vn
11. www.vietgle.vnwww.vietnamplus.vn
[1] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 14.
[2] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 16.
[3] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 129 – 130.
[4] www.baodongnai.com.vn
[5] www.vietnamplus.vn
[6] www.dongnai.gov.vn
[7] Theo http://vi.wikipedia.org.
[8] Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển III – tập trung), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, tr 12.
[9] www.baodongnai.com.vn
[10] Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển II – tập hạ), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, tr 103.
[11] Tu Trai Nguyễn Tạo (dịch) (1959), “Đại Nam nhất – thống – chí: lục tỉnh Nam Việt” (tập hạ), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, trang 8.
[12] www.baodongnai.com.vn
[13] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 108 – 109.
[14] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 108.
[15] www.baodongnai.com.vn
[16] www.baodongnai.com.vn
[17] www.dongnai.gov.vn
[18] www.vietnamplus.vn
[19] www.dongnai.gov.vn
[20] www.vietnamplus.vn
[21] Vietbao.vn
[22] www.vietnamplus.vn
[23] www.baodongnai.com.vn
[24] www.dongnai.gov.vn
[25] www.vietnamplus.vn
[26] www.baodongnai.com.vn
[27] www.dongnai.gov.vn
[28] www.vietnamplus.vn
[29] www.baodongnai.com.vn
[30] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109 – 110.
[31] www.vietnamplus.vn
[32] www.dongnai.gov.vn
[33] www.vietnamplus.vn
[34] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109.
[35] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109.
[36] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 105 – 106.
Trong diễn trình lịch sử của Biên Hòa - Đồng Nai, thành cổ Biên Hòa gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử: nhà Nguyễn dẹp cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi, cuộc chiến đấu chống quân Pháp lần thứ nhất vào nửa cuối thế kỷ 19.
Ngoài chức năng của một trung tâm hoạt động nhiều mặt xã hội đương thời, thành Biên Hoà có những đóng góp quan trọng trong việc bố phòng an ninh của nhà Nguyễn ở miền Đông Nam bộ nói chung và Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng. Thành cổ Biên Hòa được xây dựng là một thành quả có sự đóng góp sức người rất lớn của các thế hệ tiền nhân Biên Hòa.
Trên địa bàn nội ô thành phố Biên Hòa, trong khu vực phường Quang Vinh, hiện còn những dấu tích của một thành cổ với bờ thành bằng đá ong, toà kiến trúc hằn lên những vết tích của thời gian. Những gì còn sót lại chỉ là một phần nhỏ của một thành Biên Hòa được xây dựng từ thời nhà Nguyễn, trải qua bao biến thiên lịch sử với nhiều tên gọi: thành Cựu, thành Kèn, thành Săn - đá...
Theo báo Đồng Nai, so với những di tích thành cổ ở Nam phần, thành cổ Biên Hòa với những dấu tích còn lại là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua hơn 170 năm được tạo dựng, trải qua bao biến cố thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình kiến trúc cổ Biên Hòa này vẫn còn những dấu tích rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại.
Đề tài mong góp phần tìm hiểu về di tích thành Biên Hòa, lịch sử hình thành và phát triển, cũng như những dấu tích còn lại đến ngày nay. Để từ đó, có thể thấy được hiện trạng, công tác bảo tồn di tích hiện nay. Đồng thời, đề tài mong được góp phần cảnh báo sự xuống cấp của di tích cũng như sự thờ ơ của người dân và chính quyền địa phương, đưa ra một vài kiến nghị về công tác bảo tồn di tích, định hướng phát triển di tích trong tương lai.
II/ NỘI DUNG:
1. GIỚI THIỆU VỀ THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
1.1. Khái niệm “thành”:
“Trong mọi tài liệu chữ Hán, chữ “thành” đều mang hai hàm ý: hoặc giả được dùng để chỉ chung cả lỵ sở có thành phòng vệ, nếu là quốc gia thì có ý chỉ kinh đô, ví như “Thăng Long thành”, “kinh thành”, “thành thị”,...; hoặc giả chỉ dùng để chỉ công trình quân sự được xây đắp theo dáng một tường vây bao kín một trung tâm”[1].
“Thành là công trình xây dựng to lớn, mang địa vị một trung tâm quân sự, hành chính, kinh tế và văn hóa; thông thường ngoài quân sự cón có thêm một địa vị khác”[2].
“Vôbăng (Vauban) là một kỹ sư quân sự và từng được mang cấp bậc nguyên soái nước Pháp. Ông sinh tại Xanh Lêgiê (Saint-Léger (Yonne)) năm 1663, mất năm 1707.Ông đã xây dựng nhiều công trình phòng vệ biên thùy, xây dựng 33 tòa thành và sửa sang 300 đồn lũy thành trì.
Tất cả các thành lũy nước Pháp đều được xây dựng theo một trong ba hệ thống. Hệ thống Vôbăng là hệ thống thứ ba. Kiểu kiến trúc Vôbăng đã được áp dụng trong việc xây dựng nhiều thành trì của nước Pháp từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Kiểu thành Vôbăng với đặc điểm nổi bật trong việc bố trí những pháo đài (bastion), pháo đài góc (lunette d’angle), những pháo nhãn (embrassure), đường chân thành ngoài (berme), đường ngoài hào (glacis)... xuất hiện trong điều kiện mà quân đội đã được trang bị bằng những vũ khí bắn đạn được đẩy đi bằng thuốc súng”[3].
1.2. Vị trí địa lý:
Thành Biên Hòa tọa lạc tại vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp và khu danh thắng Bửu Long.[4]
Hiện vẫn còn một phần của thành Biên Hòa xưa, nằm ở khu phố 1, đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.[5]
“Tỉnh Đồng Nai có diện tích 5.862,37km2 thuộc miền Đông Nam Bộ. Chiếm 1,76% diện tích tự nhiên toàn quốc và 25,5% diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ. Giới hạn trong tọa độ địa lý: Từ 100o 22’ đến 110 o 35’ vĩ độ bắc, từ 1060 o 44’ 15” đến 1070 o 34’ 10” kinh độ đông.
Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía bắc và đông giáp tỉnh Lâm Đồng, phía bắc và tây bắc giáp tỉnh Bình Dương, phía đông và đông nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phía tây và tây nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện. Thành phố Biên Hoà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh; 1 thị xã là Long Khánh; 9 huyện gồm: Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ và Trảng Bom”[6].
“Thành phố Biên Hòa là thủ phủ của tỉnh Đồng Nai, vị trí thành phố Biên Hòa Biên Hòa nằm ở phía tây Nam tỉnh Đồng Nai, bắc giáp huyện Vĩnh Cửu, nam giáp huyện Long Thành, đông giáp huyện Trảng Bom, tây giáp huyện Dĩ An, Tân Uyên tỉnh Bình Dương và Quận 9 - thành phố Hồ Chí Minh.
Biên Hòa ở hai phía của sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km (theo Xa lộ Hà Nội và Quốc lộ 1A), cách thành phố Vũng Tàu 90 Km (theo Quốc lộ 51).
Biên Hòa có 30 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 23 phường và 7 xã). Cụ thể, các phường gồm: An Bình, Bửu Hòa, Bình Đa, Bửu Long, Hòa Bình, Hố Nai, Long Bình, Long Bình Tân, Quyết Thắng, Quang Vinh, Thanh Bình, Tam Hiệp, Tam Hòa, Tân Biên, Thống Nhất, Tân Hiệp, Tân Hòa, Tân Mai, Tân Phong, Tân Tiến, Tân Vạn, Trảng Dài, Trung Dũng và 7 xã: Hóa An, Hiệp Hòa, Tân Hạnh, An Hòa, Long Hưng, Phước Tân và Tam Phước”[7].
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển:
Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ, ký lục để quản trị; Nha thuộc có 2 ty Xá Lại để làm việc; quân binh thì có cơ đội thuyền thủy tinh binh và thuộc binh để hộ vệ[8].
Theo thư tịch cổ, từ thế kỷ 14-15, thành do dân Lạp Man xây đắp bằng đất với tên gọi "Thành Cựu". Thời nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền Thành Cựu, có mở rộng hơn, với tên gọi thành Biên Hòa[9].
Theo Gia Định Thành Thông Chí, “Lỵ sở trấn Biên Hòa khi xưa đặt ở địa phận thôn Phước Lư, huyện Phước Chính, đất ẩm thấp hằng năm có nạn lụt. Năm Gia Long thứ 15 (1816) dời qua gò cao thôn Tân Lân, hoạch định ra thành sở, ngang dọc đều 200 tầm, trong chia làm đường chữ tỉnh giữa dựng Vọng cung, 2 bên tả hữu có lầu chuông trống, chỗ chính giữa sau Vọng cung, làm 3 công dinh, rộng 80 tầm, mà chia ra làm 3 phần, duy có dinh giữa rộng thêm 5 tầm, dài 60 tầm, 2 con đường tả hữu đều 7 tầm, chu vi tường gạch, phía sau làm dãy kho chứa 31 gian, lợp ngói xây gạch dày chắc, 2 bên tả hữu làm thừa ty và quân trại, có chia khu vực chỉnh tề”[10].
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh thành Biên Hòa có “chu vi dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng; hào rộng 4 trượng, sâu 6 thước; có 4 cửa và một kỳ đài; ngoài mỗi cửa đều xây cầu đá ngang qua hào để đi qua lại. Tỉnh thành này ở địa phận thôn Tân Lân huyện Phước Chính. Khi đầu bản triều dựng đặt ở thôn Phước Lư, năm Gia Long 15 (1816) rời qua chỗ đây. Năm Minh Mạng 15 (1834), đắp bằng đất, năm 18 (tức 1837) xây lại bằng đá ong”[11].
“Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, thu gọn chu vị thành còn 1/8 so với trước và gọi là thành "Săn – đá", phiên âm từ tiếng Pháp Soldat - nghĩa là "Thành Lính". Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở. Buổi sáng lính thường sử dụng kèn báo thức, âm thanh vang cả một vùng nên dân địa phương còn gọi là Thành Kèn”[12].
“Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đề cập tới quy mô tỉnh thành Biên Hòa xưa rộng 18 héc-ta bao gồm tường rào và cả hào nước xung quanh thành. Thành được xây theo kiểu bố phòng Vôbăng, tức tường cao và dày, lại có các cạnh gấp khúc để súng đạn từ trong thành bắn ra được bao phủ đều khắp quanh thành. Trong thành, ngoài một kỳ đài, còn có mười ngôi công đường chính. Trong vùng Nam Bộ, thành Biên Hòa có vị trí lớn chỉ sau thành Gia Định. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã đưa ra hai bản đồ rất xưa đo đạc chính xác vị trí thành Biên Hòa. Bản đồ đầu tiên là Plan des rapides de Biên Hòa (bình đồ thác nước sông Biên Hòa) do 3 kỹ sư thủy quân Manen, Vidalin và Héraud đo vẽ vào năm 1862 – 1863. Bản đồ thứ hai là Carte de Cochinchine – một bản đồ nguyên gốc xuất bản vào tháng 5 năm 1926. Đây là tư liệu quý để các nhà khảo cổ, những người làm công tác quy hoạch tham khảo, xác định chính xác vị trí thành cổ và có quy hoạch phù hợp”[13].
“Thời kỳ Mỹ - ngụy, thành Biên Hòa được các thế lực xâm lược sử dụng vào mục đích quân sự. Sau năm 1975, phòng Hậu cần Công an Đồng Nai quản lý, sử dụng di tích và xây dựng thêm một số hạng mục làm công sở, nhà kho. Năm 2001, do nhu cầu mở đường nội ô ở thành phố, một số hạng mục như: lô cốt, vòng thành bị đập bỏ. Mặc dù diện tích của thành Biên Hòa bị thu hẹp, một số hạng mục bị phá vỡ so với hình thể ban đầu, nhưng vẫn bảo lưu được yếu tố gốc cần thiết. Do quá trình phát triển đô thị của tỉnh, vị trí di tích thành cổ Biên Hòa tọa lạc hiện nay bị chia làm bốn phần (thực tế chỉ giữ lại ¼, ¾ còn lại được dành cho các công trình khác)”[14].
2. THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
2.1. Dấu tích còn lại:
Nằm ở đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa hiện vẫn còn một phần của thành Biên Hòa xưa. Vết tích còn lại là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong, bên trong có ngôi biệt thự kiến trúc lầu của Pháp[15].
Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này[16].
“Thành Biên Hòa” giờ chỉ còn lại những đoạn tường thành bằng đá ong liên kết với nhau bao quanh diện tích 10.816,5 m2, cùng một số hạng mục, công trình bên trong Thành: 2 tòa biệt thự hướng Tây - Bắc và hướng Tây – Nam (1 căn 3 tầng, 1 căn 2 tầng), 2 lô cốt phía Đông và phía Bắc thành, các đoạn tường thành và móng thành[17].
Tuy nhiên, các công trình này đều bị rễ cây cổ thụ ăn vào làm xuyên tường, làm nứt mạch xây và vữa trát, nhiều đoạn bị bong tróc nghiêm trọng, nhiều chỗ bị ẩm mốc. Sàn gạch của tòa nhà trong thành đã bị han rỉ làm bong các lớp vữa trát, khiến khối gạch nằm giữa tụt khỏi khuôn, làm thủng sàn.
Ngoài ra giàn mái cũng như các cửa trên mái lấy gió, ống khói hầu như đã hư hỏng nặng. Riêng hệ thống phòng thủ nhiều đoạn tường thành cũ đã bị sập đổ. Khuôn viên của khu di tích Thành Kèn đang bị người dân chiếm dụng để trông giữ xe, tập kết vật liệu xây dựng. Hệ thống phòng thủ trong thành hiện cũng đã bị sập đổ[18].
2.2. Cấu trúc:
Theo tác giả Lương Văn Lựu viết trong Biên Hòa sử lược, thì “chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và một kỳ đài (phía chánh điện). Mỗi cửa ngõ có bắc một cầu đá ngang qua hào để làm lối lưu thông ra vào". Thành được xây theo hình cánh cung, đến năm Minh Mạng thứ 18 (tức 1837), Thành Cựu được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Thành Biên Hòa.
Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, trên cơ sở nền cũ bằng gạch thẻ và đá ong nhưng thu gọn chu vi còn 1/8 so với trước. Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở[19].
Các khu nhà biệt thự với một tòa phía tây bắc và một tòa phía đông nam. Những ngôi nhà này được xây dựng với 3 tầng có sàn gạch, mái ngói, vòm cuốn, hệ thống cửa thông gió cho cả tòa nhà, trong đó đáng chú ý là sàn gạch được chia nhỏ bằng các thanh thép hình to dày, sau đó ghép gạch lại với nhau bằng chất kết dính là vữa và vôi.
Những nghiên cứu về Thành Kèn cho thấy, nhiều kỹ thuật xây cổ vẫn còn giá trị cho các nhà nghiên cứu về công nghệ xây dựng ngày nay như: Các sàn gạch bằng vữa vôi, kết cấu giàn mái bằng thép - gỗ, cấu tạo thông gió trong ngôi nhà, cách thức lợp mái hiện đại nhưng lại xuất hiện hơn một thế kỷ trước và kỹ thuật chống sét cũng như hệ thống kỹ thuật cuốn vòm bằng gạch… [20]
2.3. Chức năng cơ bản:
Chức năng chính của thành Biên Hòa là trung tâm hành chính – chính trị (thủ phủ của một địa phương) và là trung tâm kinh tế - văn hóa – xã hội.
Ngoài chức năng của một trung tâm hoạt động nhiều mặt xã hội đương thời, thành Biên Hoà có những đóng góp quan trọng trong việc bố phòng an ninh của nhà Nguyễn ở miền Đông Nam bộ nói chung và Biên Hòa - Đồng Nai nói riêng. [21]
Trong diễn trình lịch sử của Biên Hòa - Đồng Nai, thành cổ Biên Hòa gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử: nhà Nguyễn dẹp cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi, cuộc chiến đấu chống quân Pháp lần thứ nhất vào nửa cuối thế kỷ 19. Trải qua nhiều biến cố, thành Biên Hòa có nhiều thay đổi. [22]
Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. [23]
Ngày nay “Thành Biên Hòa” không còn nguyên vẹn như xưa song những gì còn sót lại đã phản ánh được trình độ kỹ thuật, kiến trức quân sự của cha ông ta ngày xưa.[24]
Các công trình kiến trúc và những dấu tích còn lại là những tư liệu quý giá về kỹ thuật xây dựng vào thời kỳ đầu chế độ đô hộ thực dân. Trong đó, khá rõ nét là công trình phòng thủ quân sự và công trình nhà làm việc, nhà ở kiểu Pháp; các đoạn tường thành, móng thành và các vị trí chiến đấu. Tại đây cũng thấy ảnh hưởng của “tính bản địa” qua việc sử dụng các vật liệu tại chỗ như gỗ, đá tổ ong, bên cạnh các vật liệu thuần châu Âu như gạch chỉ, thép[25].
2.4. Vị trí ý nghĩa thành Biên Hòa trong vùng Đông Nam bộ :
Theo báo Đồng Nai, so với những di tích thành cổ ở Nam phần, thành cổ Biên Hòa với những dấu tích còn lại là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua hơn 170 năm được tạo dựng, trải qua bao biến cố thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình kiến trúc cổ Biên Hòa này vẫn còn những dấu tích rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại[26].
Di tích lịch sử thành Biên Hòa được xây dựng từ thời chúa Nguyễn (thế kỷ XIX). Đây là công trình kiến trúc quân sự đặc sắc có niên đại sớm ở Đồng Nai và vùng phụ cận[27].
Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu, cùng với thời gian tồn tại hàng trăm năm, Thành Kèn là chứng nhân lịch sử của triều Nguyễn, cũng là pho sử ghi lại một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Biên Hòa và miền Đông Nam bộ trong đấu tranh chống thù trong giặc ngoài và bảo vệ Tổ quốc. [28]
Những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho biết, Thành Biên Hòa có một vị trí rất quan trọng trên nhiều mặt. Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này[29].
Sự tồn tại của những dấu tích kiến trúc này là một điều may mắn cho địa phương, các nhà quản lý, chuyên ngành trong công tác bảo vệ. Diễn trình của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai chỉ hơn 300 năm có lẻ thì thành Biên Hòa tồn tại 170 năm. Các di vật thể loại hình thành trì thời Nguyễn ở Nam Bộ hầu như không để lại dấu tích kiến trúc như thành Biên Hòa. Vì vậy, khi bảo vệ di tích này, đây sẽ là một loại hình di tích độc đáo của cả Nam Bộ và có thể phát huy giá trị của chúng trong các hoạt động liên quan[30].
3. CÔNG TÁC BẢO TỒN DI TÍCH THÀNH CỔ BIÊN HÒA:
3.1. Hiện trạng:
Công trình di tích có ý nghĩa cả về mặt lịch sử và khoa học này là hiện đang bị xâm chiếm và xuống cấp nghiêm trọng.
Tuy nhiên, các công trình này đều bị rễ cây ăn vào làm xuyên tường, nhiều đoạn bị bong tróc nghiêm trọng. Sàn gạch của tòa nhà trong thành đã bị han rỉ làm bong các lớp vữa trát, khiến khối gạch nằm giữa tụt khỏi khuôn, làm thủng sàn.
Ngoài ra giàn mái cũng như các cửa trên mái lấy gió, ống khói hầu như đã hư hỏng nặng. Riêng hệ thống phòng thủ nhiều đoạn tường thành cũ đã bị sập đổ. Khuôn viên của khu di tích Thành Kèn đang bị người dân chiếm dụng để trông giữ xe, tập kết vật liệu xây dựng. Hệ thống phòng thủ trong thành hiện cũng đã bị sập đổ.
Theo khảo sát của Ban quản lý di tích danh thắng tỉnh Đồng Nai, trước đây, Thành Kèn còn có hệ thống cống ngầm phía dưới, nhưng hiện công trình này có thể đã bị vùi lấp. Có người còn cho rằng thành còn có cả hệ thống hầm ngầm và địa đạo nối liền với các khối nhà cổ...
Để cứu lấy di tích lịch sử Thành Kèn, pho sử quý giá này, theo các chuyên gia, chính quyền địa phương cần nhanh chóng lập dự án phục hồi các hạng mục trên, thực hiện ngay các công đoạn trùng tu, tôn tạo di tích trước khi công trình này chỉ còn là đống đổ nát.[31]
3.2. Công tác bảo tồn:
Sáng 23/11/2009, Ban quản lý Di tích – Danh thắng tỉnh Đồng Nai đã tổ chức lễ kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11); công bố quyết định công nhận di tích lịch sử Thành Biên Hòa và khai mạc triển lãm “Thành Biên Hòa – Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa”.
Ngày nay “Thành Biên Hòa” không còn nguyên vẹn như xưa song những gì còn sót lại đã phản ánh được trình độ kỹ thuật, kiến trức quân sự của cha ông ta ngày xưa. Việc công nhận Di tích lịch sử thành Biên Hòa vào dịp kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần khơi dậy niềm tự hào và nâng cao ý thức tự tôn dân tộc đối với thế hệ trẻ.
Nhân dịp này, Ban quản lý Di tích đã tổ chức triển lãm với tên gọi “Thành Biên Hòa – Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa” gồm 18 bức ảnh về Thành cổ Biên Hòa, 35 ảnh về Thành cổ Việt Nam, đặc biệt trong đó có 15 ảnh và 74 hiện vật về Biên Hòa xưa đã tái hiện cảnh đường phố và nét sinh hoạt văn hóa của người Biên Hòa những năm đầu thế kỷ 20. Triển lãm này đã giới thiệu một số hình ảnh tiêu biểu về Di tích lịch sử Thành Biên Hòa, Thành cổ Việt Nam và Biên Hòa xưa đến với nhân dân địa phương và du khách góp phần nâng cao nhận thức trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo quản khai thác giá trị Di sản văn hóa Việt Nam; đồng thời tổ chức Hội thảo về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của Thành Biên Hòa cũng như các giải pháp bảo quản, trùng tu và tôn tạo di tích ngày một khang trang hơn.[32]
Cùng với những thăng trầm của lịch sử, Thành Biên Hòa tuy không còn nguyên vẹn như lúc ban đầu, song những gì còn sót lại của một thành trì (vị trí tọa lạc, hình dáng, chất liệu xây dựng, lô cốt, biệt thự...) phần nào phản ảnh được trình độ kỹ thuật, kiến trúc quân sự, tư tưởng chiến thuật của cha ông ngày xưa. Đặc biệt, Thành Biên Hòa tọa lạc vào vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp và khu danh thắng Bửu Long. Vì thế, Thành Biên Hòa trong tương lai trở thành một trong những điểm tham quan du khảo về nguồn của học sinh, sinh viên và du khách...[33]
3.2. Kiến nghị:
Vì tầm quan trọng của di tích đối với thành phố Biên Hòa nói riêng và tỉnh Đồng Nai nói chung, cần có những biện pháp tích cực, cấp bách để bảo tồn di tích khỏi sự xuống cấp trầm trọng đang diễn ra hằng năm, thậm chí là hàng tháng, hằng ngày.
Trước hết cần “phải bảo tồn nguyên vẹn di tích hiện hữu để các thế hệ hôm nay và mai sau nghiên cứu một cách toàn diện về thành cổ Biên Hòa trong điều kiện, phương diện trình độ khoa học mới”[34].
Cần có những biện pháp tích cực hơn để bảo tồn di tích. Những buổi triển lãm cần được tổ chức thường xuyên hơn, phổ biến rộng rãi hơn để tuyên truyền, giáo dục ý thức cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. Nên có đội ngũ triển lãm lưu động để có thể tổ chức triển lãm trong và ngoài tỉnh, góp phần vừa tuyên truyền, giáo dục vừa giới thiệu về di tích cho người dân khắp nơi.
Các hội thảo khoa học cũng phải tổ chức thường xuyên hơn, góp phần đưa ra các giải pháp trùng tu, tôn tạo di tích sao cho có thể vừa giữ gìn nguyên vẹn tính chất, lịch sử của di tích, vừa cứu di tích khỏi nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Đưa di tích đến với đông đảo công chúng bằng cách kết hợp bảo vệ di tích với phát triển du lịch, các hoạt động văn hóa – văn nghệ, các trò chơi dân gian,…góp phần tái hiện lại lịch sử thành Biên Hòa xưa.
Cần lập ra ban quản lý di tích để quản lý di tích, góp phần bảo vệ, tôn tạo di tích, giới thiệu di tích với khách du lịch. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có chuyên môn cao, thực hiện các chính sách thu hút nhân tài, nhất là cán bộ chuyên ngành khảo cổ học, bảo tàng học, văn hóa học, dân tộc học,…để có thể bảo tồn di tích tốt hơn.
Cần kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và người dân ở xung quanh di tích cùng bảo vệ di tích. Phải giáo dục, tuyên truyền để người dân địa phương, không lấn chiếm, phá hoại di tích mà sẽ cùng chung tay bảo vệ di tích khỏi bàn tay phá hoại của kẻ xấu cũng như mối mọt, động vật, thực vật xâm hại,...
“Khảo cổ học Đồng Nai đã phát hiện nhiều loại hình di tích, di vật quanh thành cổ như: tượng, bệ thờ, Yoni, phù điêu, tấm đan, tượng thần, tượng Phật,…Việc khảo sát tìm hiểu các địa tầng văn hóa trong khu vực thành cổ để nghiên cứu sâu rộng di sản văn hóa cha ông để lại là việc làm cần thiết”[35].
III/ KẾT LUẬN:
“Thành Biên Hòa là một trong số những kiến trúc thành trì độc đáo còn sót lại ở Nam Bộ. Cùng với diễn trình lịch sử, thành Biên Hòa đã trở thành nơi minh chứng lịch sử hào hùng của con người vùng đất Biên Hòa, Đồng Nai trong suốt chặng đường hành trình và phát triển”[36].
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, trải qua 170 năm hình thành, phát triể và tồn tại, Thành Biên Hòa tuy không còn nguyên vẹn như lúc ban đầu, song những gì còn sót lại của một thành trì (vị trí tọa lạc, hình dáng, chất liệu xây dựng, lô cốt, biệt thự...) phần nào phản ảnh được trình độ kỹ thuật, kiến trúc quân sự, tư tưởng chiến thuật của cha ông ta.
Mặc dù đã bị thu hẹp, lấn chiếm, xuống cấp, nhưng thành Biên Hòa vẫn còn hiên ngang tồn tại giữa lòng thành phố trong khi các thành trì thời nhà Nguyễn khác ở Nam Bộ đã không còn dấu tích.
Cũng là một may mắn cho thành Biên Hòa, khi những gì còn lại của tòa thành xưa ngày nay tọa lạc vào vị trí trung tâm của Thành phố Biên Hòa, rất gần với các di tích như đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, đền thờ Nguyễn Tri Phương, lăng mộ Trịnh Hoài Đức, đền liệt sĩ, di tích cách mạng Nhà Xanh, di tích cách mạng nhà lao Tân Hiệp, khu danh thắng Bửu Long… Vì thế, Thành Biên Hòa trong tương lai rất có thể sẽ trở thành một trong những điểm tham quan du khảo về nguồn của học sinh, sinh viên và du khách trong và ngoài nước.
Nhưng do không được bảo quản tốt, thành Biên Hòa hiện nay đang xuống cấp trầm trọng và bị người dân lấn chiếm sử dụng cho mục đích riêng. Nếu không có những biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời, cũng như các biện pháp tôn tạo, bảo vệ di tích, thì thành Biên Hòa không bao lâu nữa sẽ hoàn toàn sụp đổ.
Vì tầm quan trọng của di tích, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Nai nói chung, thành phố Biên Hòa nói riêng cần chung tay bảo tồn di tích, để di tích có thể tồn tại cùng thời gian, để cho các thế hệ mai sau được chiêm ngưỡng, tự hào.
IV/ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Sách:
1. “Đại Nam Nhất Thống Chí”
2. Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, “Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển”, NXB Đồng Nai, Đồng Nai – 1998.
3. Bảo tàng Đồng Nai (1995), “Người Đồng Nai”, NXB Đồng Nai.
4. Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam: cấu trúc, tác dụng trong chiến tranh giữ nước”, Luận án phó tiến sĩ khoa học, Viện Khảo cổ học – 1981.
5. Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983.
6. Hà Văn Tấn (chủ biên), “Khảo cổ học Việt Nam – tập III – Khảo cổ học lịch sử Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 2002.
7. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách Khoa Việt Nam (2003), “Từ điển Bách Khoa Việt Nam” – quyển 1,2,3, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
8. Nguyễn Thừa Hỷ – Đỗ Bang – Nguyễn Văn Đăng, “Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn”, NXB Thuận Hóa, Huế – 1999.
9. Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển III – tập trung), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa.
10. Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.
11. Võ Sĩ Khải (2002), “Văn hóa Đồng Bằng Nam Bộ (di tích kiến trúc cổ)”, NXB KHXH, TP.HCM.
Internet:
1. http://vi.wikipedia.org.
2. http://vietbao.vn
3. http://www.baria-vungtau.gov.vn
4. http://www.dongnaionline.com
5. http://www.panoramio.com
6. www.baodongnai.com.vn
7. www.dongnai.gov.vn
8. www.dongnaionline.com
9. www.dothi.net
10. www.thethaovanhoa.vn
11. www.vietgle.vnwww.vietnamplus.vn
[1] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 14.
[2] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 16.
[3] Đỗ Văn Ninh, “Thành cổ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội – 1983, trang 129 – 130.
[4] www.baodongnai.com.vn
[5] www.vietnamplus.vn
[6] www.dongnai.gov.vn
[7] Theo http://vi.wikipedia.org.
[8] Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển III – tập trung), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, tr 12.
[9] www.baodongnai.com.vn
[10] Trịnh Hoài Đức (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch) (1972), “Gia Định Thành Thông Chí” (quyển II – tập hạ), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, tr 103.
[11] Tu Trai Nguyễn Tạo (dịch) (1959), “Đại Nam nhất – thống – chí: lục tỉnh Nam Việt” (tập hạ), Nha Văn hóa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, trang 8.
[12] www.baodongnai.com.vn
[13] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 108 – 109.
[14] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 108.
[15] www.baodongnai.com.vn
[16] www.baodongnai.com.vn
[17] www.dongnai.gov.vn
[18] www.vietnamplus.vn
[19] www.dongnai.gov.vn
[20] www.vietnamplus.vn
[21] Vietbao.vn
[22] www.vietnamplus.vn
[23] www.baodongnai.com.vn
[24] www.dongnai.gov.vn
[25] www.vietnamplus.vn
[26] www.baodongnai.com.vn
[27] www.dongnai.gov.vn
[28] www.vietnamplus.vn
[29] www.baodongnai.com.vn
[30] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109 – 110.
[31] www.vietnamplus.vn
[32] www.dongnai.gov.vn
[33] www.vietnamplus.vn
[34] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109.
[35] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 109.
[36] Tủ sách lịch sử (2009), “Hỏi đáp về các thành cổ và địa đạo Việt Nam”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, trang 105 – 106.
KHÁNH HÀ
Khanh Ha- Moderator
- Tổng số bài gửi : 83
Join date : 11/06/2009
Re: THÀNH CỔ BIÊN HÒA VÀ DẤU TÍCH CÒN LẠI
Đây là bài tiểu luận cuối kỳ chuyên đề Thành cổ của mình.
post hình sau nhé
post hình sau nhé
Khanh Ha- Moderator
- Tổng số bài gửi : 83
Join date : 11/06/2009
Re: THÀNH CỔ BIÊN HÒA VÀ DẤU TÍCH CÒN LẠI
he he lâu lâu bạn Hà tái xuất giang hồ nhỉ?
mới đọc sơ sơ thôi, nhưng biết đây là tâm huyết của bạn Hà, muốn làm cái gì đó cho đất Đồng Nai.
mới đọc sơ sơ thôi, nhưng biết đây là tâm huyết của bạn Hà, muốn làm cái gì đó cho đất Đồng Nai.
atena- Moderator
- Tổng số bài gửi : 125
Join date : 20/07/2009
Age : 36
Similar topics
» CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ NGHIÊN CỨU DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THÀNH AN THỔ Ở HUYỆN TUY AN - TỈNH PHÚ YÊN
» Di tích Rạch Núi với hệ thống các di tích cùng thời ở lưu vực sông Vàm Cỏ và Đông Nam Bộ
» Sự tích Tình yêu
» Di tích Rạch Núi với hệ thống các di tích cùng thời ở lưu vực sông Vàm Cỏ và Đông Nam Bộ
» Sự tích Tình yêu
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Thu Jun 27, 2013 8:11 am by diepkhaoco52
» Những người chế tác thần linh
Thu Jun 27, 2013 7:53 am by diepkhaoco52
» Nỗi niềm di chỉ khảo cổ học
Thu Jun 27, 2013 7:52 am by diepkhaoco52
» Tượng Ấn Độ Giáo (Phần 2)
Wed Jun 26, 2013 9:45 pm by diepkhaoco52
» Tượng Ấn Độ Giáo (Phần 1)
Wed Jun 26, 2013 9:43 pm by diepkhaoco52
» Văn hóa Ngưỡng Thiều (Phần 2)
Wed Jun 26, 2013 9:36 pm by diepkhaoco52
» Văn hóa Ngưỡng Thiều (văn hóa đá mới Trung Quốc)
Wed Jun 26, 2013 9:30 pm by diepkhaoco52
» Sách từ điển khảo cổ học
Wed Jun 26, 2013 9:20 pm by diepkhaoco52
» Lý lịch MrDiep_archaeology
Wed Jun 26, 2013 9:12 pm by diepkhaoco52